Sinh vật methane dưỡng (còn được gọi là
sinh vật ưa methane) là những
sinh vật nhân sơ dùng
methane (metan) làm nguồn
carbon và
năng lượng hóa học của chúng. Chúng có thể là
vi khuẩn hoặc
vi khuẩn cổ, hiếu khí hoặc kị khí nhưng tất cả đều cần hợp chất đơn carbon để tồn tại. Sinh vật methane dưỡng rất phổ biến ở những môi trường nơi methane được sản sinh, dù một số sinh vật này có thể sử dụng
methane khí quyển. Môi trường sống của chúng bao gồm đất ngập nước, bùn, đầm lầy, ruộng lúa, bãi rác và các khối nước tự nhiên (ao hồ, sông suối, biển,...). Chúng đặc biệt được quan tâm bởi những nhà nghiên cứu về sự
ấm lên toàn cầu, bởi vì chúng đóng vai trò rất quan trọng trong sự cân bằng methane, với khả năng làm giảm lượng methane thải ra khí quyển của chúng.
[1][2]Methane dưỡng là một dạng đặc biệt của
methyl dưỡng - sử dụng các hợp chất đơn carbon có tính khử cao hơn. Tuy nhiên, một số sinh vật methyl dưỡng vẫn có thể dùng hợp chất đa carbon, điều này làm chúng khác biệt khỏi sinh vật methan dưỡng - thường là những sinh vật khử methane hoặc methanol bắt buộc. Sinh vật methane dưỡng tùy nghi duy nhất đã được phân lập là một loài thuộc chi
Methylocella silvestris,
[3][4] Methylocapsa aurea[5] và một số dòng
Methylocystis.
[6]Nói một cách chuyên môn, sinh vật methane dưỡng là những sinh vật oxi hóa methane. Tuy nhiên, có những sinh vật oxi hóa methane những không phải sinh vật methane dưỡng. Vì lí do này, sinh vật oxi hóa methane được chia làm hai nhóm: MAB (sinh vật methan dưỡng) và AAOB (sinh vật oxi hóa ammonia) - những sinh vật đồng oxi hóa methane.
[7]